Tăng acid uric máu trong cộng đồng khá phổ biến. Acid uric là sản phẩm thoái hóa của base purin, có nhiều trong các loại thịt đỏ động vật. Nếu cách đây 2 thập niên, tình trạng tăng acid uric ở người Việt Nam ước tính chỉ 1 – 2% thì hiện nay, tỷ lệ đó đã tăng lên rất nhiều. Ngoài bệnh gút, chứng tăng acid uric máu còn thấy ở một số bệnh khác mà đa số gặp ở người cao tuổi. Trong đó chỉ có 10% số người tăng acid uric huyết bị bệnh gút. (NCT).
Acid uric máu khi tăng cao gây tác hại gì?
Ở cơ thể người bình thường, sự chuyển hóa các chất có nhân purin tạo ra một lượng acid uric có tính chất hằng định ở trong máu (nam giới từ 180 – 420mmol/l, nữ giới từ 150 – 360mmol/l). Khi chỉ số acid uric máu tăng cao hơn bình thường được gọi là tăng acid uric máu. Như vậy, chứng tăng acid uric máu là do rối loạn chuyển hóa gây ra. Đứng hàng đầu trong chứng tăng acid uric máu là người đã và đang mắc bệnh gút. Khi bị bệnh gút thì chắc chắn có acid uric trong máu tăng. Tuy vậy, khi xét nghiệm thấy acid uric máu tăng thì chưa chắc là mắc bệnh gút (tất nhiên ngoài acid uric tăng thì bệnh gút còn có các triệu chứng khác, rất điển hình). Một số bệnh liên quan đến tăng acid uric máu như bệnh sỏi thận, suy thận mạn, bệnh đa u tủy xương, thiếu máu tan máu, bệnh bạch cầu (leucemia), dùng hóa chất gây độc tế bào trong điều trị bệnh ung thư, một số người tăng huyết áp hoặc bệnh đái tháo đường, béo phì, tăng mỡ máu. Theo một nghiên cứu tại Hà Lan, những bệnh nhân bị gút ở tuổi trung niên thường dễ bị tăng huyết áp (43%), tăng cholesterol máu (5%) và đái tháo đường (>50%). Vì thế, các chuyên gia về khớp có một nhìn nhận mới: bệnh gút là dấu hiệu sớm của các bệnh về tim, mạch.
Hình ảnh minh họa thực phẩm giàu purin
Tuy nhiên nhiều nghiên cứu cũng cho thấy vai trò quan trọng của acid uric đối với cơ thể chũng ta
1. Kích thích lên não bộ
Vào khoảng giữa những năm 50, người ta đã nhận thức rằng axit uric có một cấu trúc tương tự với caféine, điều này đã làm khích động trí tưởng tượng. Suốt trong những năm 60 và 70, nhiều bài báo, báo cáo rằng những người có tăng axit uric-huyết (hyperuricémie) là thông minh hơn và nhìn toàn bộ có hiệu quả h.Tuy vậy, axit uric đã được xem như là một chất phần nào có tác dụng kích thích lên não bộ.
2. Chống oxy hóa
Axit uric cũng đã gợi sự tò mò do những tính chất chống oxy hóa của nó. Từ những công trình nghiên cứu dịch tễ học cho thấy rằng, những người có một nồng độ axit uric thấp, có nguy cơ mắc bệnh Alzheimer, bệnh Parkinson và cả bệnh xơ cứng rải rác (sclérose en plaques) được giảm. Những dữ kiện mới đây đã chỉ cho thấy rằng hiệu quả này là do axit uric làm chậm sự vượt qua hàng rào huyết-não (barrière hémato-encéphalique), hơn là do một tác dụng thật sự chống oxy hóa (action antioxydante). Chưa có một công trình nghiên cứu nào cho thấy tác dụng thuận lợi này của axit uric lên não bộ, những hướng nghiên cứu vẫn được tiếp tục theo đuổi.
Như vậy, Acid uric trong máu có vài trò quan trọng đối với cơ thể. Do đó, cơ thể bình thường luôn có một lượng acid uric. Khi mất cân bằng trong chuyển hóa chúng như: ăn quá nhiều thức ăn giàu purin, giảm thải trừ acid uric qua thận hoặc kết hợp cả 2 nguyên nhân trên, khi đó mới dẫn đến nhiều các bệnh lý về chuyển hóa.